Hiện nay, tỷ lệ ly hôn đang có xu hướng gia tăng nhanh chóng, nhất là đối với những cặp đôi trẻ. Số liệu thống kê cho thấy, số vụ ly hôn ở Việt Nam hiện ở mức 60.000 vụ/năm, tương đương 0,75 vụ/1.000 dân.
Tỷ lệ ly hôn so với kết hôn là 25%, có nghĩa cứ 4 cặp vợ chồng đi đăng ký kết hôn thì một đôi ra tòa. Nguyên nhân của thực trạng trên là do lâm vào tình trạng mẫu thuẫn vợ chồng, mục đích của hôn nhân không đạt được.
Thực tế hiện nay có những trường hợp người chồng muốn ly hôn trong khi con còn nhỏ hoặc vợ đang mang thai dẫn đến những ảnh hưởng nghiêm trọng về sức khoẻ và tinh thần của người vợ.
Vậy theo quy định hiện hành, trường hợp vợ đang mang thai thì chồng muốn ly hôn có được không?
Trong bài viết này, Công ty Luật A&An sẽ giúp bạn đọc tìm hiểu chi tiết về vấn đề này. Xin mời các bạn tham khảo.
MỤC LỤC
Căn cứ pháp lý
– Luật Hôn nhân và Gia đình 2014;
– Nghị định 126/2014/NĐ-CP về Hướng dẫn thi hành luật hôn nhân và gia đình.
1. Quy định về Quyền yêu cầu giải quyết ly hôn
Theo khoản 14 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về ly hôn như sau:
“14. Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án.”
Theo Điều 39 Bộ luật Dân sự 2015 về quyền nhân thân trong hôn nhân, gia đình quy định rõ:
“Điều 39. Quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình
1. Cá nhân có quyền kết hôn, ly hôn, quyền bình đẳng của vợ chồng, quyền xác định cha, mẹ, con, quyền được nhận làm con nuôi, quyền nuôi con nuôi và các quyền nhân thân khác trong quan hệ hôn nhân, quan hệ cha mẹ và con và quan hệ giữa các thành viên gia đình.
Con sinh ra không phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân của cha, mẹ đều có quyền và nghĩa vụ như nhau đối với cha, mẹ của mình.
2. Cá nhân thực hiện quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình theo quy định của Bộ luật này, Luật hôn nhân và gia đình và luật khác có liên quan.”
Theo đó, Bộ luật dân sự quy định vợ chồng bình đẳng nhau về quyền ly hôn trong quan hệ hôn nhân và gia đình. Căn cứ tại Điều 51 Luật hôn nhân và gia đình 2014, người có quyền yêu cầu giải quyết ly hôn gồm:
“Điều 51. Quyền yêu cầu giải quyết ly hôn
1. Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.
2. Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.
3. Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.”
2. Người chồng có được ly hôn khi vợ đang mang thai không
Theo quy định tại khoản 3 Điều 51 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 đã nêu, chồng không có quyền nộp đơn ly hôn khi vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.
Tuy nhiên, pháp luật Hôn nhân gia đình chỉ hạn chế quyền yêu cầu ly hôn của chồng khi vợ đang mang thai nhưng lại không cấm người vợ ly hôn. Do đó, nếu tình trạng hôn nhân trở lên trầm trọng, mâu thuẫn kéo dài không thể hàn gắn ảnh hưởng đền quyền và lợi ích hợp pháp của người vợ hoặc bào thai trong bụng thì vợ vẫn có quyền nộp đơn xin ly hôn đơn phương và Tòa án sẽ thụ lý giải quyết.
– Trường hợp người chồng không đồng ý thì người vợ có thể căn cứ theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và Gia đình 2014 để ly hôn theo yêu cầu của một bên:
“1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.
2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.
3. Trong trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật này thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia.”
Khi đó, các con đương nhiên sẽ do người vợ nuôi và chăm sóc theo quy định khoản 3 Điều 81 của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014:
“3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con
Trên đây là nội dung bài viết của Luật sư A&An về chồng có được ly hôn khi vợ đang mang thai.
Nếu Quý khách hàng có bất kỳ khó khăn hay vướng mắc gì trong quá trình tham khảo và áp dụng quy định trên, hãy liên hệ với chúng tôi theo Hotline 0911092191 để được tư vấn và hỗ trợ sớm nhất.