Đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là biện pháp xử lý hành chính quy định trong Luật Xử lý vi phạm hành chính được áp dụng đối với chủ thể nghiện ma túy, có xác nhận của cơ quan y tế có thẩm quyền.
Với mục đích xử lý các chủ thể nghiện ma túy cũng như giúp họ cai nghiện đồng thời giáo dục, răn đe các chủ thể khác, pháp luật đã ngay lập tức có những điều chỉnh kịp thời, đảm bảo an ninh, trật tự xã hội và hạn chế các tệ nạn xã hội.
Việc đưa chủ thể phạm tội vào cơ sở cai nghiệp bắt buộc nhằm từng bước hạn chế và xóa bỏ tệ nạn xã hội, tạo điều kiện cho các cá nhân người nghiện có cơ hội được quay lại hòa nhập với xã hội.
Trong bài viết này, Công ty Luật A&An sẽ giúp bạn đọc tìm hiểu chi tiết, xin mời các Bạn tham khảo!

MỤC LỤC
Căn cứ pháp lý
- Luật Xử lý vi phạm Hành chính;
- Bộ luật Dân sự 2015;
- Nghị định 221/2013/NĐ-CP;
- Nghị định 136/2016/NĐ-CP.
1. Trước hết, người cai nghiện nào bị bắt buộc đưa vào cơ sở?
Căn cứ Điều 95 Luật Xử lý vi phạm Hành chính quy định:
“Đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là biện pháp xử lý hành chính áp dụng đối với người có hành vi vi phạm quy định tại Điều 96 của Luật này để chữa bệnh, lao động, học văn hóa, học nghề dưới sự quản lý của cơ sở cai nghiện bắt buộc.”
Theo đó, dẫn chiếu đến Điều 96 Luật này quy định:
“1. Người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên thuộc trường hợp bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định của Luật Phòng, chống ma túy.
2. Không áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với các trường hợp sau đây:
a) Người không có năng lực trách nhiệm hành chính;
b) Người đang mang thai có chứng nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh từ tuyến huyện trở lên;
c) Phụ nữ hoặc người duy nhất đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú xác nhận.”
Như vậy, mục đích áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là để chữa bệnh, lao động, học văn hóa, học nghề.
Căn cứ Điều 3, Nghị định 221/2013/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 136/2016/NĐ-CP quy định đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc bao gồm:
- Người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên, có nơi cư trú ổn định, trong thời hạn 02 năm kể từ ngày chấp hành xong quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma túy hoặc trong thời hạn 01 năm kể từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma túy mà vẫn còn nghiện.
- Người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên, có nơi cư trú ổn định, bị chấm dứt thi hành quyết định giáo dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma túy.
- Người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên, không có nơi cư trú ổn định.
2. Vậy bảo lãnh là gì? Bảo lãnh người cai nghiện bắt buộc là gì?
Căn cứ Khoản 1 Điều 335 Bộ luật Dân sự 2015 quy định:
“Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.”
Như vậy, trong trường hợp bên được bảo lãnh không thể thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên bảo lãnh có trách nhiệm thực hiện thay nghĩa vụ đó trong khoảng thời gian thỏa thuận nhất định.
Có thể Bạn quan tâm:
- Công chức bị kết án tù treo có được tiếp tục làm việc không?
- Tham nhũng là gì? Biện pháp xử lý đối với hành vi tham nhũng?
- Làm nhục người khác trên Mạng xã hội bị xử lý như thế nào?

3. Có được bảo lãnh người cai nghiện bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc không?
Có thể thấy, không có quy định cho phép thực hiện bảo lãnh người bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Tuy nhiên, có thể được giảm thời hạn, tạm đình hoặc miễn chấp hành thời gian còn lại tại cơ sở cai nghiện theo quy định tại Điều 19 Nghị định 221/2013/NĐ-CP, theo các trường hợp, điều kiện cụ thể như sau:
3.1. Học viên đã chấp hành một nửa thời hạn quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, nếu có tiến bộ rõ rệt hoặc lập công thì được xét giảm một phần hoặc miễn chấp hành phần thời gian còn lại.
Học viên có tiến bộ rõ rệt là người nghiêm chỉnh chấp hành nội quy, quy chế, quy trình cai nghiện tại cơ sở, tích cực lao động, học tập, tham gia các phong trào chung của cơ sở và được Hội đồng khen thưởng, kỷ luật của cơ sở cai nghiện bắt buộc (sau đây gọi tắt là Hội đồng) công nhận.
Học viên lập công là người dũng cảm cứu người, cứu được tài sản của Nhà nước, của tập thể hoặc của người khác và được Giám đốc cơ sở cai nghiện bắt buộc khen thưởng; có sáng kiến cải tiến kỹ thuật có giá trị trong lao động, sản xuất, được cơ quan chức năng từ cấp tỉnh trở lên công nhận; có thành tích đặc biệt xuất sắc trong phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc và được tặng giấy khen của Công an hoặc Ủy ban nhân dân cấp huyện trở lên.
3.2. Học viên bị mắc bệnh hiểm nghèo, phụ nữ mang thai trong thời gian chấp hành quyết định thì được miễn chấp hành phần thời gian còn lại.
3.3. Trường hợp người đang chấp hành quyết định tại cơ sở cai nghiện bắt buộc ốm nặng có xác nhận của bệnh viện mà được đưa về gia đình điều trị thì được tạm đình chỉ chấp hành quyết định; thời gian điều trị được tính vào thời gian chấp hành quyết định;
Sau khi sức khỏe được phục hồi mà thời hạn chấp hành còn lại từ 03 tháng trở lên thì người đó phải tiếp tục chấp hành; trong thời gian tạm đình chỉ thi hành quyết định mà người đó có tiến bộ rõ rệt hoặc lập công thì được miễn chấp hành phần thời gian còn lại.
3.4. Định kỳ hàng quý hoặc đột xuất khi có học viên thuộc diện được giảm thời hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành phần thời gian còn lại tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, Giám đốc cơ sở cai nghiện bắt buộc có trách nhiệm lập hồ sơ đề nghị và tổ chức họp Hội đồng xem xét đề nghị giảm thời hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành phần thời gian còn lại.
3.5. Căn cứ danh sách học viên được đề xuất, Hội đồng xem xét, biểu quyết đối với từng trường hợp cụ thể và kết luận theo đa số. Trường hợp số phiếu biểu quyết bằng nhau thì ý kiến của Chủ tịch Hội đồng là ý kiến quyết định.
3.6. Trong thời hạn 02 ngày, kể từ khi nhận được Biên bản họp của Hội đồng, Giám đốc cơ sở cai nghiện bắt buộc lập hồ sơ đề nghị gửi Tòa án nhân dân cấp huyện nơi cơ sở cai nghiện bắt buộc đóng trụ sở xem xét quyết định.
Hồ sơ đề nghị gồm:
a) Văn bản đề nghị của Giám đốc cơ sở cai nghiện bắt buộc;
b) Danh sách học viên được đề nghị giảm thời hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành phần thời gian còn lại;
c) Biên bản họp Hội đồng;
d) Kết quả nhận xét, đánh giá hàng tháng của tổ, đội và bản thành tích của từng học viên được đề nghị;
đ) Giấy xác nhận của bệnh viện về tình trạng sức khỏe đối với các trường hợp ốm nặng, bệnh hiểm nghèo, phụ nữ mang thai.
3.7. Trong thời gian chờ Tòa án nhân dân cấp huyện xem xét, quyết định, nếu người được đề nghị có hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm nội quy, quy chế của cơ sở cai nghiện bắt buộc thì Giám đốc cơ sở có trách nhiệm tổ chức họp Hội đồng và làm văn bản đề nghị đưa người đó ra khỏi danh sách xem xét giảm thời hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn phần thời gian còn lại gửi Tòa án nhân dân cấp huyện nơi nhận hồ sơ.
Trường hợp đã có quyết định giảm thời hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn phần thời gian còn lại nhưng chưa thi hành thì đề nghị Tòa án nhân dân cấp huyện xem xét hủy quyết định.
Trên đây là nội dung bài viết của Luật sư A&An về vấn đề Bảo lãnh người bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được khôngvà các vấn đề liên quan.
Nếu Quý Khách có bất kỳ khó khăn hay vướng mắc gì trong quá trình tham khảo và áp dụng quy định trên, hãy liên hệ với chúng tôi theo Hotline 0911092191 để được tư vấn và hỗ trợ sớm nhất.
Luật sư A&An ∼ Our Work. Your Success!
