Tội loạn luân là gì? Phạm tội loạn luân bị xử lý như thế nào?
Hành vi giao cấu giữa cha với con, mẹ với con, anh em ruột thịt, những người có mối quan hệ huyết thống với nhau là hành vi mà không ai có thể chấp nhận, thấu hiểu hay cảm thông vì nó quá trái với “Luân thường, đạo lý”.
Ngay cả pháp luật cũng đã quy định hình thức xử phạt đối với hành vi này, mặc dù hành vi hoàn toàn tự nguyện, không bị ép buộc nhưng nó vi phạm đạo đức một cách trầm trọng đó là tội loạn luân.
Vậy tội loạn luân là gì? Phạm tội loạn luân bị xử lý như thế nào?
Trong bài viết này, Luật sư A&An sẽ phân tích rõ vấn đề trên, xin mời các Bạn tham khảo!

MỤC LỤC
Căn cứ pháp lý
1. Trước hết, tội loạn luân là gì?
Tội loạn luân được hiểu là hành vi giao cấu với người mà biết rõ người đó cùng dòng máu về trực hệ, là anh chị em cùng cha mẹ, anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha, nói dễ hiểu là hành vi giao cấu giữa cha với con, mẹ với con, anh chị em ruột; anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha.
Lưu ý: Tại Khoản 17, Điều 3 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 đã quy định rõ thế nào là “trực hệ”, cụ thể là những người cùng dòng máu về trực hệ là những người có quan hệ huyết thống, trong đó, người này sinh ra người kia kế tiếp nhau.
2.1. Chủ thể của tội loạn luân
Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt, ngoài yêu cầu về độ tuổi chịu TNHS có năng lực TNHS là người đủ 16 tuổi trở lên, còn phải đáp ứng dấu hiệu của chủ thể đặc biệt, đó là người có quan hệ huyết thống với người cùng giao cấu.
2.2. Khách thể của tội loạn luân
Hành vi phạm tội xâm phạm đến chế độ hôn nhân và gia đình được pháp luật ghi nhận, làm ảnh hưởng tới các giá trị đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tục cũng như đem lại những hệ lụy về giống nòi.
2.3. Mặt khách quan của tội loạn luân
Hành vi khách quan của tội phạm này là hành vi giao cấu thuận tình với người cùng dòng máu về trực hệ:
- Cha với con;
- Mẹ với con;
- Ông với cháu;
- Bà với cháu;
- Giữa anh chị em cùng cha mẹ hoặc cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha với nhau.
Hành vi giao cấu trong tội loạn luân được thực hiện trên cơ sở thuận tình, không có dấu hiệu dùng vũ lực hoặc cưỡng ép và được thực hiện với người từ đủ 16 tuổi trở lên, giữa những người loạn luân biết rõ họ cùng dòng máu về trực hệ.
Trong trường hợp tuy hành vi giao cấu giữa những người nói trên là thuận tình, nhưng nếu hành vi đó được thực hiện đối với trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, thì không truy cứu trách nhiệm hình sự về tội loạn luân mà phải truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Giao cấu hoặc Thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (điểm c, khoản 2, Điều 145 Bộ luật Hình sự).
Trong trường hợp hành vi loạn luân kèm theo dấu hiệu dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác, thì tùy trường hợp người thực hiện hành vi đó phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Hiếp dâm (điểm e, khoản 2, Điều 141 Bộ luật Hình sự).
Hoặc tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi (điểm a khoản 2 Điều 142 Bộ luật Hình sự); nếu hành vi loạn luân kèm theo dấu hiệu lợi dụng quan hệ lệ thuộc khiến bên kia phải miễn cưỡng cho giao cấu, thì tùy trường hợp người thực hiện hành vi đó phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Cưỡng dâm (điểm d, khoản 2, Điều 143 Bộ luật Hình sự).
Hoặc tội Cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (điểm a, khoản 2, Điều 144 Bộ luật Hình sự); trong mọi trường hợp hành vi loạn luân được thực hiện đối với trẻ em dưới 13 tuổi, thì người thực hiện hành vi loạn luân phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi (điểm b, khoản 1, Điều 142 Bộ luật Hình sự).
2.4. Mặt chủ quan của tội loạn luân
Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, điều luật quy định người phạm tội biết rõ người giao cấu với mình có quan hệ đặc biệt như trên mà vẫn thực hiện hành vi giao cấu.
Như vậy, để thỏa mãn tội loạn luân cần những điều kiện sau:
- Chủ thể là người đủ 16 tuổi trở lên có hành vi giao cấu với người từ đủ 16 tuổi trở lên;
- Người giao cấu với người mà biết rõ người đó cùng dòng máu về trực hệ, là anh chị em cùng cha mẹ, anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha;
- Hành vi giao cấu được thực hiện trên cơ sở thuận tình, không có dấu hiệu dùng vũ lực hoặc cưỡng ép.
2.5. Ví dụ thực tế về tội loạn luân
Bản án số: 37/2018/HS-ST ngày 31-10-2018
Nội dung vụ án:
Khoảng 16 giờ, ngày 30/6/2018, Hờ A T ( sinh năm 1933) bảo con gái ruột là Hờ Thị M ( sinh năm 1984) đang ở cùng nhà với T đi theo T xuống bên dưới vườn chuối dưới nhà để lấy cây chuối về cho lợn ăn. T đi xuống vườn chuối trước, Hờ Thị M xuống theo sau.
Sau khi chặt chuối xong và bỏ chuối vào gùi xong, thì T nảy sinh ý định thực hiện hành vi giao cấu với con đẻ là Hờ Thị M, khi Tú hỏi Hờ Thị M cho giao cấu thì được Hờ Thị M đồng ý cho giao cấu, nên T đã thực hiện hành vi giao cấu với Hờ Thị M.
Giao cấu xong, T bảo Hờ Thị M đi về trước, còn T đi xuống suối tìm mua cá về để ăn cơm chiều. Trước đó, T cũng đã thực hiện hành vi giao cấu với Hờ Thị M tại chòi sắn của gia đình tại bản Tà Cóm, xã Trung Lý, Hờ A T khai nhận, mỗi khi thực hiện hành vi giao cấu với Hờ Thị M thì đều hỏi và được Hờ Thị M đồng ý cho giao cấu, nên T mới thực hiện hành vi giao cấu với chị M.
Chị Hờ Thị M khai báo và trình bày tại Tòa: Chị bị Hờ A T giao cấu tổng là 04 lần, một lần ở chòi phơi sắn của gia đình, hai lần ở khu đồi sau nhà và 01 lần vào chiều ngày 30/6/2018, mỗi lần Hờ A T thực hiện hành vi giao cấu, T thường dọa nạt và khống chế, ép chị M phải cho giao cấu.
nếu không cho sẽ bị đánh, nên chị phải cho T giao cấu, khi Hờ A T giao cấu với chị thì không ai nhìn thấy, chỉ 02 người biết, chị không có nhân chứng hoặc chứng cứ khác để chứng minh.
Sau cùng Bị cáo Hờ A T phạm tội: “Loạn luân” bị Toà tuyên bố phạt 02(Hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 02/7/2018.
Theo Bản án trên, ta có thể phân tích:
– Chủ thể: Hờ A T sinh năm 1933 và con gái ruột là Hờ Thị M sinh năm 1984, cả 2 đều đã trên 16 tuổi tại thời điểm giao cấu.
– Mặt khách quan: tại thời điểm thực hiện hành vi giao cấu cả hai đều thuận tình với người cùng dòng máu về trực hệ là cha với con. Mặc dù Chị Hờ Thị M khai báo và trình bày tại Tòa là mỗi lần Hờ A T thực hiện hành vi giao cấu, T thường dọa nạt và khống chế, ép chị M phải cho giao cấu.
Nếu không cho sẽ bị đánh, nên chị phải cho T giao cấu, khi Hờ A T giao cấu với chị thì không ai nhìn thấy, chỉ 02 người biết, chị không có nhân chứng hoặc chứng cứ khác để chứng minh bị ép buộc.
Hơn nữa, bị hại là người có sức khỏe và những dấu vết để lại trên thân thể của người bị hại không xác định được là do bị cáo ép buộc và không có chứng cứ khác để chứng minh. Như vậy chỉ dựa vào lời khai của người bị hại chưa đủ cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị cáo về tội “Hiếp dâm”.
– Mặt chủ quan: Ông Hờ A T biết rõ chị Hờ Thị M là con gái ruột nhưng vẫn thực hiện hành vi giao cấu.
Có thể Bạn quan tâm:
- Thủ tục công chứng tài sản trước hôn nhân?
- Quy định án phí tranh chấp đất đai?
- Dịch vụ Luật sư Ly hôn tại Đà Nẵng.

3. Hình phạt của tội loạn luân theo Bộ luật Hình sự thế nào?
Theo Điều 184 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định:
“Điều 184. Tội loạn luân
Người nào giao cấu với người mà biết rõ người đó cùng dòng máu về trực hệ, là anh chị em cùng cha mẹ, anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.”
Đây là quy định có ý nghĩa rất quan trọng, mang tính văn hoá phổ quát nhất, phù hợp với các chuẩn mực đạo đức xã hội nhằm bảo vệ và phát huy giá trị gia đình Việt Nam bền vững, đáp ứng ưu cầu đấu tranh phòng, chống hành vi vi phạm pháp luật trong giai đoạn mới.
Trên đây là nội dung bài viết của Luật sư A&An về tội loạn luân là gì, hình phạt của tội loạn luân theo Bộ luật Hình sự và các vấn đề liên quan.
Nếu Quý Khách có bất kỳ khó khăn hay vướng mắc gì trong quá trình tham khảo và áp dụng quy định trên, hãy liên hệ với chúng tôi theo Hotline 0911092191 để được tư vấn và hỗ trợ sớm nhất.
Luật sư A&An ∼ Our Work. Your Success!
