Pháp luật dân sự tôn trọng quyền của mọi chủ thể tham gia trong quan hệ dân sự, cho phép cá nhân, pháp nhân thực hiện quyền dân sự theo ý chí của mình. Nhưng pháp luật cũng quy định về giới hạn thực hiện quyền dân sự và không được lạm quyền trong quan hệ dân sự. Hãy cùng luật sư A&An tìm hiểu rõ hơn về vấn đề giới hạn thực hiện quyền dân sự theo pháp luật Việt Nam. Sau đây là bài viết chi tiết, xin mời các bạn tham khảo.
Căn cứ pháp lý: Bộ luật Dân sự 2015.
MỤC LỤC
1. Quyền dân sự là gì?
Điều 2 Bộ luật Dân sự có quy định về quyền dân sự như sau:
“Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền dân sự được công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Quyền dân sự chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.”
Quyền dân sự là nội dung của quan hệ pháp luật dân sự, trong mối tồn tại tương quan với nghĩa vụ dân sự, hay nói cách khác, nội dung của quan hệ pháp luật dân sự là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia vào quan hệ đó. Quyền của một bên tương ứng với nghĩa vụ của bên kia để tạo thành mối liên hệ biện chứng và thống nhất trong một quan hệ dân sự cụ thể. Nếu không có quyền của một bên thì cũng không có nghĩa vụ của bên kia và ngược lại.
2. Thực hiện quyền dân sự, giới hạn thực hiện quyền dân sự
Pháp luật hiện hành xác định quyền dân sự là một trong các quyền cơ bản của con người, nên các quyền dân sự sẽ được pháp luật công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Tuy nhiên, quyền dân sự có thể bị hạn chế trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng. Cá nhân, pháp nhân thực hiện quyền dân sự theo ý chí của mình, không được trái với quy định của pháp luật.
2.1. Thực hiện quyền dân sự
Căn cứ tại Điều 9 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về thực hiện quyền dân sự cụ thể như sau:
– Cá nhân, pháp nhân thực hiện quyền dân sự theo ý chí của mình, không được trái với quy định tại Điều 3 và Điều 10 của Bộ luật này.
– Việc cá nhân, pháp nhân không thực hiện quyền dân sự của mình không phải là căn cứ làm chấm dứt quyền, trừ trường hợp luật có quy định khác.
Theo đó, trong quan hệ dân sự thì các chủ thể luôn bình đẳng với nhau, mọi giao dịch dân sự được hình thành trên cơ sở tự nguyện, tự do ý chí. Các bên được quyền tự do thỏa thuận để hai bên cùng có lợi, mỗi bên đều đạt được mục đích của mình. Pháp luật luôn tôn trọng ý chí của các bên.
Cá nhân, pháp nhân không được lạm dụng quyền dân sự của mình gây thiệt hại cho người khác, để vi phạm nghĩa vụ của mình hoặc thực hiện mực đích khác trái pháp luật. Mọi chủ thể đều bình đẳng với nhau, không chủ thể nào có địa vị cao hơn. Do vậy, mọi người thực hiện quyền của mình phải đảm bảo không xâm phạm đến quyền của người khác.
Ngoài việc tôn trọng quyền của chủ thể trong quan hệ dân sự, pháp luật dân sự cũng quy định: khi cá nhân, pháp nhân không thực hiện quyền dân sự của mình không phải là căn cứ làm chấm dứt quyền, trừ trường hợp luật có quy định khác. Quyền là không thể bắt buộc, ai muốn thực hiện quyền của mình thì thực hiện. Ngược lại, đã là nghĩa vụ thì phải thực hiện vì nếu không thực hiện sẽ ảnh hưởng đến quyền của người khác.
2.2. Giới hạn thực hiện quyền dân sự
Giới hạn việc thực hiện quyền dân sự là phạm vi hạn chế mà pháp luật quy định cho cá nhân, pháp nhận thực hiện các quyền dân sự của mình, theo đó cá nhân, pháp nhân không được lạm dụng quyền dân sự của mình gây thiệt hại cho người khác, để vi phạm nghĩa vụ của mình hoặc thực hiện mục đích khác trái pháp luật.
Căn cứ theo Điều 10 Bộ luật Dân sự 2015 quy định cụ thể về Giới hạn việc thực hiện quyền dân sự như sau:
“1. Cá nhân, pháp nhân không được lạm dụng quyền dân sự của mình gây thiệt hại cho người khác, để vi phạm nghĩa vụ của mình hoặc thực hiện mục đích khác trái pháp luật.
2. Trường hợp cá nhân, pháp nhân không tuân thủ quy định tại khoản 1 Điều này thì Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác căn cứ vào tính chất, hậu quả của hành vi vi phạm mà có thể không bảo vệ một phần hoặc toàn bộ quyền của họ, buộc bồi thường nếu gây thiệt hại và có thể áp dụng chế tài khác do luật quy định.”
Pháp luật dân sự tôn trọng quyền của chủ thể trong quan hệ dân sự, cho phép cá nhân, pháp nhân thực hiện quyền dân sự theo ý chí của mình. Nhưng pháp luật dân sự cũng quy định về giới hạn thực hiện quyền dân sự và không được lạm quyền trong quan hệ dân sự.
Như vậy, có thể thấy rằng pháp luật dân sự tôn trọng quyền của chủ thể trong quan hệ dân sự nhưng phải xác lập, thực hiện không trái với nguyên tắc cơ bản của Bộ luật Dân sự năm 2015. Khi chủ thể của quan hệ dân sự không tuân thủ nguyên tắc cơ bản quy định, vi phạm giới hạn thực hiện quyền dân sự, thì có thể pháp luật không bảo vệ một phần hoặc toàn bộ quyền của họ.
3. Các phương thức bảo vệ quyền dân sự
Khi quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân bị xâm phạm thì chủ thể đó có quyền tự bảo vệ theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền:
a. Công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền dân sự của mình.
b. Buộc chấm dứt hành vi xâm phạm.
c. Buộc xin lỗi, cải chính công khai.
d. Buộc thực hiện nghĩa vụ.
đ. Buộc bồi thường thiệt hại.
e. Hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền.
f. Yêu cầu khác theo quy định của luật.
Trên đây là nội dung bài viết của Luật sư A&An về thực hiện quyền dân sự, giới hạn thực hiện quyền dân sự đúng pháp luật. Nếu Quý khách hàng có bất kì khó khăn hay vướng mắc gì trong quá trình tham khảo và áp dụng quy định trên, hãy liên hệ với chúng tôi để được tư vấn và hỗ trợ sớm nhất.
Luật sư A&An – Our Work. Your Success.