Trong Bộ luật Hình sự của Việt Nam, hệ thống hình phạt được sắp xếp theo trật tự nhất định tùy thuộc vào tính chất, mức độ nghiêm khắc của mỗi loại hình phạt. Hình phạt được phân loại thành 2 nhóm là hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Bài viết trước, Luật sư A&An đã chia sẻ với các bạn quy định về Hình phạt chính, với bài viết lần này, chúng tôi xin được tiếp tục chia sẻ quy định về Hình phạt bổ sung trong Luật hình sự, xin mời các bạn theo dõi. Sau đây là bài viết chi tiết.
Căn cứ pháp lý:
– Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
1. Hình phạt bổ sung là gì
Theo quy định của pháp luật hiện nay, hình phạt bổ sung là một loại hình phạt cơ bản được quy định tại Bộ luật hình sự.
Hình phạt bổ sung là hình phạt được áp dụng kèm theo hình phạt chính đối với những tội phạm nhất định, nhằm tăng cường, củng cố tác dụng của hình phạt chính. Thông thường, những tội có tính chất nghiêm trọng, gây ra những hậu quả lớn cho xã hội thì Hội đồng xét xử sẽ có thêm hình phạt bổ sung đối với người phạm tội. Và nếu người bị kết án không bị áp dụng hình phạt chính thì tòa án không được áp dụng hình phạt chính bổ sung đối.
Về nguyên tắc, với mỗi tội phạm, người phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt chính, nhưng lại có thể bị áp dụng nhiều loại hình phạt bổ sung. Trong trường hợp một người bị kết án về nhiều tội, thì hình phạt bổ sung của tội nào chỉ áp dụng đối với tội ấy, không áp dụng hình phạt bổ sung chung cho tất cả các tội. Thực tiễn xét xử do không nắm chắc nguyên tắc này, nên có một số trường hợp Tòa án đã tuyên hình phạt bổ sung chung cho tất cả các tội mà người bị kết án đã phạm.
2. Các loại hình phạt bổ sung
Theo quy định tại Điều 32 Bộ luật hình sự 2015, hình phạt bổ sung gồm các loại như sau:
– Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định;
– Cấm cư trú;
– Quản chế;
– Tước một số quyền công dân;
– Tịch thu tài sản;
– Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính;
– Trục xuất, khi không áp dụng là hình phạt chính.
Sau đây là chi tiết về từng hình phạt:
2.1. Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định
Theo quy định tại Điều 41 Bộ luật hình sự 2015, cụ thể:
Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định được áp dụng khi xét thấy nếu để người bị kết án đảm nhiệm chức vụ, hành nghề hoặc làm công việc đó thì có thể gây nguy hại cho xã hội. Thời hạn cấm là từ 01 năm đến 05 năm, kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù hoặc từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật nếu hình phạt chính là cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc trong trường hợp người bị kết án được hưởng án treo.
Ví dụ: Ông B là Chủ tịch ủy ban nhân dân phường C, tuy nhiên đã có hành vi lợi dụng chức quyền xúc phạm nghiêm trọng đến nhân phẩm, danh dự của người dân nhiều lần và đã bị kết án phạt tù 4 tháng, đồng thời cấm đảm nhiệm chức vụ trong 01 năm.
2.2. Cấm cư trú
Theo quy định tại Điều 42 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017, cụ thể:
Cấm cư trú là biện pháp buộc người bị kết án phạt tù không được tạm trú hoặc thường trú ở một số địa phương nhất định. Chỉ được ở tại địa phương nơi đang sinh sống, không được di chuyển đến địa phương khác trong một thời gian.
Thời hạn cấm cư trú là từ 01 năm đến 05 năm, kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù.
2.3. Quản chế
Theo quy định tại Điều 43 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017, cụ thể:
Quản chế là buộc người bị kết án phạt tù phải cư trú, làm ăn sinh sống và cải tạo ở một địa phương nhất định dưới sự kiểm soát, giáo dục của chính quyền và nhân dân địa phương. Trong thời gian quản chế, người bị kết án không được tự ý ra khỏi nơi cư trú, bị tước một số quyền công dân theo quy định tại Điều 44 của Bộ luật hình sự như quyền ứng cử đại biểu cơ quan quyền lực nhà nước, quyền làm việc trong các cơ quan nhà nước và quyền phục vụ trong lực lượng vũ trang nhân dân và bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định đối với công việc liên quan đến hành vi phạm tội.
Quản chế được áp dụng đối với người phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia, người tái phạm nguy hiểm hoặc trong những trường hợp khác do Bộ luật hình sự quy định.
Thời hạn quản chế là từ 01 năm đến 05 năm, kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù.
2.4. Tước một số quyền công dân
Theo quy định tại Điều 44 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017, cụ thể::
Công dân Việt Nam bị kết án phạt tù về tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội phạm khác trong những trường hợp do Bộ luật hình sự quy định, thì bị tước một hoặc một số quyền công dân sau đây:
+ Quyền ứng cử đại biểu cơ quan quyền lực Nhà nước như quyền bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân các cấp hoặc đại biểu Quốc hội.
+ Quyền làm việc trong các cơ quan nhà nước và quyền phục vụ trong lực lượng vũ trang nhân dân như công an nhân dân, sĩ quan quân đội, hay đảm nhiệm các chức vụ, công việc trong bộ máy nhà nước.
Thời hạn tước một số quyền công dân là từ 01 năm đến 05 năm, kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù hoặc kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật trong trường hợp người bị kết án được hưởng án treo.
2.5. Tịch thu tài sản
Theo quy định tại Điều 45 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017, cụ thể:
Tịch thu tài sản là tước một phần hoặc toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của người bị kết án để nộp vào ngân sách nhà nước.
Tịch thu tài sản chỉ được áp dụng đối với người bị kết án về tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm về ma túy, tham nhũng hoặc tội phạm khác do Bộ luật này quy định.
Khi tịch thu toàn bộ tài sản vẫn để cho người bị kết án và gia đình họ có điều kiện sinh sống. Chỉ tịch thu tài sản có liên quan đến hành vi phạm tội nhưng trường hợp người này phải nuôi cha mẹ già thì có thể tịch thu một phần tài sản đảm bảo thi hành án, tạo điều kiện cho gia đình của người phạm tội có chi phí sinh hoạt, tiêu dùng. Đây chính là tính nhân đạo, nhân văn của pháp luật nước ta.
2.6. Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính
Khi không áp dụng là hình phạt chính là hình phạt tiền thì lúc này Tòa án có thể xem xét mức độ nguy hiểm cho xã hội mà quyết định áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền.
2.7. Trục xuất, khi không áp dụng là hình phạt chính
Hình phạt trục xuất chỉ áp dụng đối với trường hợp người phạm tội là người nước ngoài bị Tòa án nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam kết án, buộc họ rời khỏi lãnh thổ nước ta. Và trường hợp Tòa án không áp dụng hình phạt chính là hình phạt trục xuất khỏi lãnh thổ nước ta thì lúc này hình phạt trục xuất được xem là hình phạt bổ sung.
Trên đây là nội dung bài viết của Luật sư A&An về các Hình phạt bổ sung theo luật hình sự. Nếu Quý khách hàng có bất kì khó khăn hay vướng mắc gì trong quá trình tham khảo và áp dụng quy định trên, hãy liên hệ với chúng tôi để được tư vấn và hỗ trợ sớm nhất.